Tục cầu mưa của người Thái
Vào tháng ba, tháng tư hàng năm, khi trời đại hạn là người Thái lại tổ chức ngày hội cầu mưa. Hội tổ chức theo từng bản vào những đêm trăng có quầng đỏ quầng vàng – điềm báo trời đại hạn kéo dài. Tham gia tổ chức hội đông nhất là nam nữ thanh niên. Những người trung niên và già cả thì ở nhà để sẵn sàng đón tiếp đoàn hát cầu mưa. Đoàn hát thường đông tới năm sáu chục người. Ai cũng tự sắm sửa đủ mũ, nón đội đầu và áo mưa (áo tơi lá cọ). Mọi người xếp hàng hai ở một bãi rộng trong làng. Dẫn đầu đoàn hát có một người lĩnh xướng, người thứ hai cầm một cái sàng gạo. Họ chọn nhà nào có cụ bà cao tuổi nhất bản đến đầu tiên.
Khi tới sân nhà cụ bà, đoàn ngưòi dừng lại, đội ngũ chỉnh tề. Người lĩnh xướng gọi vọng lên trên nhà mời cụ bà ra cầu thang làm lễ cầu mưa. Dứt lời mời, cả đoàn người hưởng ứng bằng lời hát cầu mưa:
Ủ ùm, ới… ỉ lang!
Trời tức mình làm nắng không mưa
Nay xin nước mưa xuống cày ruộng mạ
Xin nước trời xuống cấy ruộng mùa
Lúa ở nương chết héo
Ốc ở đồng chết khô
Đất nẻ, gió hun
Con ruồi chết ngạt,
Người già ra bến được chạy cơn mưa
Ơn được hạt mưa to bằng quả gắm,
Các suối đều lũ lụt.
Các hố hốc đều ngập,
Các hố củ mài tràn đầy,
Các gò mối trôi thành bãi bằng.
Được mùa lúa tốt nặng bông,
Được mùa lúa nếp dẻo thơm.
Ra bến nhặt được trứng vịt,
Đi câu nhặt được trứng ngỗng.
Qua bản nhặt được bạc
Qua mường nhặt được vàng.
Đầu dây buộc trâu
Cuối dây buộc ngựa
Ra bến nhặt được bạc,
Qua đường nhặt được bạc loảng xoảng
Cũng của chủ nhà này
Lấp loáng vào
Lấp loáng ra
Tất tưởi bà chủ nhà.
Chủ nhà này tốt bụng
Có cái gì củng cho.
Không cho, chúng tôi chưa chạy,
Không cho, chúng tôi chưa đi.
Sáng hôm sau, chúng tôi lại đến
Sáng sớm mai chúng tôi lại về.
Đến xin cơm của người làm ruộng,
Đến xin cá của người làm cá.
Cho canh môn mặn cũng ơn.
Cho canh môn nhạt cũng ơn,
Gói cho canh, xương mành cành cũng ơn.
Gói cho cơm thừa bừa sáng, bữa trưa cũng ơn.
Gói cho ớt cay ở gác trên cũng ơn
Gói cho muôi mặn ỏ gác dưới cũng ơn
Ơn… Ơn… lắm!
Hát hết bài, người lĩnh xướng nhắc mọi người hát lại từ đầu. Lúc này, từ trên cầu thang, cụ bà xuất hiện với bộ trang phục đẹp nhất, dùng khi có hội hè và việc vui hệ trọng trong họ hàng cùng huyết thống. Trang phục của bà gồm: áo dài mặc ngoài màu hồng nhạt hoặc đỏ tham, cổ áo và gấu áo viền hoa văn rực rỡ. Mặc bên trong là váy cạp rồng, thân váy đen chàm viển vải mầu hoặc chắp hẳn một mảnh thêu đẹp hình muông thú. Áo ngắn (sứa cóm) màu xanh lá mạ hoặc tơ vàng. Đầu đội khăn nhiễu đen; cổ đeo một cái vòng bạc to bằng ngón tay trỏ, hai cổ tay nhăn nheo của cụ bà đeo 5, 6 vòng
bạc. Cụ bà nào còn đi đứng được sẽ tự mặc lấy quần áo, nếu không bước được nữa thì phải nhờ con cháu trong nhà mặc giúp và dìu cụ bà từ trong nhà ra tận cầu thang. Cử chỉ của cụ bà dù có mệt mỏi, từ tôn đến mấy cũng phải tạo được vẻ khôi hài khi làm lễ “ban nước mưa” cho dân làng. Cụ bà cô” đưa cả hai tay khô cứng vào chậu nưóc lạnh đặt trước mặt do con cháu bô trí sẵn và luôn tiếp thêm nước từ trong máng đựng nước ra chậu. Cụ bà lần lượt té nước vào đám người đứng theo hàng lô nhố dưới sân. Khi té đến chậu nước thứ ba, thứ tư xem chừng ai cũng đêu ướt mũ, nón, đoàn hát nhường cho người cầm sàng gạo tiến lên để hứng lấy cả chậu nước cuối cùng của cụ bà dội từ cầu thang xuống. Vừa dội nước vào mặt sàng, cụ bà vừa cười, nói hóm hỉnh…
– Chà… chà… hạt mưa to như quả “muội”. Mọi sông, suối đều đỏ phù sa!
– Chà… chà… úi cha! Mưa to này, mưa dày hột này! Chà… chà…!.
Thế là mọi người lập tức hát vang bài hát cầu mưa để tỏ lòng cảm ơn cụ bà, mở đầu bằng câu: “ờn… ơn… dơ! (ơn… ơn… lắm)!. Hát trọn bài, đoàn hát kéo nhau rồng rắn quanh sân nhà cụ bà một vòng rồi đi hát tiếp các nhà khác. Những nhà tiếp theo chủ nhà không nhất thiết làm lễ “ban nước” mà chỉ cần biếu đoàn hát gói xôi và gói muối con. Việc cảm ơn người biếu quà cũng theo hình thức như ở sân nhà cụ bà.
Sau khi đi khắp lượt các nhà trong bản, đoàn hát cầu mưa trỏ lại nơi xuất phát để châm đuốc. Môi người thắp một bó đuốc trên tay, họ diễu hành hàng một quanh bản một vòng, sau đó kéo nhau ra suối nước. Tất cả số đuốc được chụm lại hai, ba đống bên bờ suối. Lửa đuốc sáng rực cả một góc trời, hát ánh vàng xuống dòng nước lóng lánh. Họ liền chia ra từng tốp nam, nữ dứng mặt đối mặt với nhau, để thi tát nước ”vàng” nước “bạc” vào người, vào mặt nhau. Khi ai nấy đều ướt sũng, rét cóng cả người, mới chịu tan đêm hội về nhà mình.
Sáng sớm hôm sau, bản liền cử một số đàn ông đứng tuổi, khỏe mạnh lên rừng tìm cây dáy “vằn” và xuống suối nhặt lấy ốc “đít nhọn”. Họ đem cây dáy “vằn” đút vào miệng lổ các mỏ nước mạch (đê chọc tức vua nước). Đoạn, họ lại đem ốc “đít nhọn” ở suối đóng như đóng đinh vào thân cây sổ (để chọc tức vua trời). Họ nghĩ rằng: Vua “trời” và vua “nước” bị người trần trêu tức, ắt sẽ nổi giận làm ra mưa to, gió lốn. Đề phòng vua “trời” và vua “nước” trả thù, khắp nơi nơi người ta cấp tốc tìm cây cột chổng đõ những nhà sàn bị mối mọt, xiêu vẹo, đồng thời họ khơi thông mương máng, sửa sang lại bai đập vững chắc. Ớ giữa các bai đập, người ta còn đặt một cái thang tre 12 bậc từ chân đập lên mặt đập, mỗi bậc lên xuống đều cắm lông cánh con vịt và cứ cách hai bậc lại treo lủng lẳng quả trứng vịt nhuộm màu, có ý để thần “Rồng” theo thang đó mà qua lại chứ không chui rúc theo dòng nước lũ, làm hỏng bai đập của con người.
Vào dịp tổ chức hội cầu mưa, hầu như mọi sinh hoạt của người Thái đều hướng cả vào việc cầu mưa. Trai gái yêu nhau cũng tạm gác những lời hát tỏ tình giao dụyên mà họ dành lời ưốc ao cho hạt mưa rơi. Giọng hát gieo vừng, gieo kê (bán pháng bán ngà) vọng từ núi này sang núi khác đểu một lời cầu mưa tha thiết:
“Mưa xuống đi, hột nước yêu thương!
Mưa xuống đi, cho chàng cày ruộng
Mưa xuống đi, cho nàng xới cây hông
Mưa xuống đi, cho ếch nhái đầy đồng
Mưa xuống đi, cho thuyền khơi đánh cá”
Hoặc:
Trời không mưa lấy đâu thóc lúa
Để anh cưới em về chung sống bên nhau ?
Ôi! Trời hại đôi ta rồi.
Hẹn mùa sau nhé – chắc trời thương ta!”
Nếu sau ngày hội cầu mưa, trời vẫn nắng hạn thì đến tháng trăng sau, các làng lại tổ chức tiếp với hình thức như lần hội kỳ trước.