VĂN KHẤN KHI CÚNG TẠI ĐÌNH, ĐỀN, MIẾU, PHỦ
Ý nghĩa:
Theo văn hoá truyền thống của người Việt ta thì ở mỗi tỉnh, thành, làng, xã đều có đình, đền, miếu, phủ là nơi lập lên để thờ tự Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu. Các vị Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu là các bậc tiền nhân đã có công với dân làng, xã tắc và dân tộc trong lịch sử đấu tranh, gìn giữ, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đến nay, mọi người vẫn theo lệ xưa thường đi lễ ở đình, đền, miếu, phủ trong ngày lễ hội, Tết và ngày Rằm, mồng Một để tỏ lòng tôn kính, ngưỡng mộ biết ơn các bậc Tôn thần đã có công với đất nước.
Đình, đền, miếu, phủ cũng là nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng, duy trì tình cảm yêu nước bởi sự lưu truyền, sự linh diệu của các thần. Một số trong họ đã đi vào trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam như: Đền Hùng thờ Vua Hùng; Đền Gióng (ở Sóc Sơn) thờ Thánh Gióng, Đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh.
Đình, đền, miếu, phủ không những là nơi thờ tự mà còn là những nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Mọi người đến đình, đền, miếu, phủ để cầu khấn những điều tốt lành và mong muôn được ban những điều tốt đẹp cho bản thân và gia đình.
Sắm lễ dâng hương:
Khi đến đình, đền, miếu, phủ nên có lễ vật để tỏ tấm lòng thành dù cho lễ to nhỏ thế nào thì do tùy tâm. Dù là nơi thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng vẫn có thể dùng lễ chay như hương hoa, xôi oản, bánh trái hoặc cỗ chay để dâng cúng, hoặc dùng đồ mặn để cúng đều được.
Lễ chay
Lễ để dâng ban Phật, Bồ Tát (nếu có): Hương hoa, xôi oản, bánh trái, trầu cau, trà…
Lễ để dâng ban Thánh Mẫu: Ngoài những thứ như dâng ban Phật, Bồ Tát thì nên sắm thêm một số mã để dâng cúng, bao gồm: tiền, vàng, nón, hia…
Lễ mặn
Mọi người thường dâng cúng gà, lợn, giò, chả… được làm tinh sạch và đặt tại ban thờ Ngũ vị quan lớn tức là ban Công Đồng.
Lễ đồ sống
Trứng (5 quả trứng vịt – đặt trong 1 đĩa và 2 quả trứng gà đặt trong 2 cốc), gạo, muối hoặc thịt mồi (một miếng thịt lợn ngon khoảng vài lạng, được khía cẩn thận làm 5 phần) và kèm theo lễ này cũng có thêm tiền vàng mã. Đặt lễ này tại hạ ban Công Đồng Tứ Phủ nơi dành riêng cho việc dâng cúng quan Ngũ Hổ, Bạch Xà.
Cỗ mặn Sơn Trang
Gồm những đồ đặc sản: Cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… có thêm gạo nếp cẩm nấu xôi chè vào lễ này để dâng cúng thì rất tốt.
Thông thường, khi sắm lễ mặn Sơn Trang, mọi người thường sắm theo con số 15: 15 con ốc, cua, 15 quả ớt, chanh hoặc có thể là 1 quả nhưng được khía ra làm 15 phần… Con số 15 này tương ứng với 15 vị được thờ tại ban Sơn Trang.
Tên của 15 vị được thờ tại ban Sơn Trang như sau:
- 1 vị chúa.
- 2 vị hầu cận.
- 12 vị cô Sơn Trang.
Lễ dâng cúng ở ban thờ Cô, thờ Cậu
Hương hoa, phẩm oản, bánh trái
Đồ mã như hài, hia, nón áo…
Gương, lược… và những đồ nhỏ xinh đẹp mắt được đựng trong bao hoặc túi đẹp.
Lễ thần Thành Hoàng, Thư Điền
Thường là dâng lễ lễ mặn gồm: chân giò lợn luộc, xôi, rượu, tiền, vàng ma.
Lưu ý khi hạ lễ:
Sau khi khấn, lễ ở các ban thờ xong, trong khi đợi hết một tuần hương mọi người thường viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.
Khi thắp hết một tuần hương mọi người có thể thắp thêm một tuần hương nữa và vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ mã (tiền, vàng hay đồ mã) đem đi hoá tại khu vực hoá vàng.
Nên hoá tiền, vàng… từng lễ một, thứ tự từ lễ của ban thờ chính cho tới cuối cùng là lễ tiền vàng… ở ban thờ Cô, thờ Cậu.
Sau khi hoá tiền vàng xong thì mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ phải hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính.
Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì không hạ xuống mà để nguyên trên ban thờ, tuyệt đối không đem về.
Lưu ý về trình tự dâng lễ:
Lễ trình thần Thổ Địa, Thủ Đền đầu tiên. Gọi là lễ trình vì đó là lễ cáo Thần linh Thổ Địa nơi mình đến dâng lễ. Người thực hành tín ngưỡng cáo lễ Thần linh cho phép được tiến hành lễ tại đình, đền, miếu, phủ.
Tiếp đến mọi người sửa bày lễ cúng, mỗi lễ đều được sắp bày ra các mâm và khay chuyên dùng vào việc cúng lễ tại đình, đền, miêu, phủ.
Kế đến là đặt lễ vào từng ban và lưu ý phải dâng lễ bằng hai tay, đặt ngay ngắn lên ban thờ. Phải đặt lễ vật lên ban chính rồi trở ra ban ngoài cùng. Sau khi đặt lễ cho từng ban xong thì mọi người mới được thắp hương.
Khi hành lễ, phải lễ từ ban thờ chính đến ban ngoài cùng. Thông thường lễ ban cuối cùng là ban thờ Cô, thờ Cậu.
Thứ tự khi thắp hương: Thắp từ trong ra ngoài. Ban thờ chính của điện được đặt theo hàng dọc, ở gian giữa được thắp hương trước. Các ban thờ hai bên được thắp hương sau khi đã thắp xong hương ban chính ở gian giữa.
Khi thắp hương phải thắp số lẻ: 1, 3, 5, 7 nén (mọi người hay thắp 3 nén). Khi châm xong lửa cho hương thì mọi người phải dùng hai tay dâng hương lên ngang trán, vái ba vái rồi dùng cả hai tay kính cẩn cắm hương vào lư hương trên bàn thờ.
Nếu có sớ tấu trình (xin, cầu) thì phải kẹp sớ vào giữa bàn tay hoặc đặt lên một cái đĩa nhỏ, hai tay nâng đĩa sớ lên ngang mày rồi vái ba lần.
Ngày trước mọi người thường thỉnh chuông ba hồi chuông rồi mới lễ, hiện này việc này ít người làm.
Khi tiến hành lễ dâng hương mọi người có thể đọc văn khấn hoặc sớ trình trước các ban, nếu không đọc thì chỉ cần đặt văn khấn, số trình lên một cái đĩa nhỏ, rồi đặt vào mâm lễ dâng cúng cũng được. Khi hóa thì phải hóa văn khấn trước hóa lễ mã sau.